(Bài viết sau đây lượt dịch từ bài gốc trên trang StorageReview)

Lưu trữ đối tượng (Object Storage) đã trải qua nhiều thăng trầm từ những ngày đầu. Chúng ta đều nhớ các dự án, sáng kiến hoặc công ty vào cuối những năm 90 và đầu những năm 2000 với truy cập dựa trên HTTP nhắm đến việc lưu trữ với mô hình dựa trên đĩa. Sau đó, một làn sóng các nhà cung cấp, một số mới, cùng với sự ra mắt chính thức của Amazon S3 vào năm 2006 đã khởi động một kỷ nguyên mới thực sự của lưu trữ mà chúng ta gần đây gọi là Lưu trữ Định nghĩa Bằng Phần mềm (SDS), ít nhất là đối với lưu trữ đối tượng. Để cho rõ, chúng tôi mời bạn xem lịch sử phát triển của Object Storage theo dòng thời gian dưới đây, do Coldago Research sản xuất.

Song song đó, hơn 10 năm trước, chúng tôi nhớ một số nhà cung cấp tuyên bố thay thế NAS và SAN bằng lưu trữ đối tượng. Sự chuyển đổi đó không xảy ra mặc dù chúng tôi đã thấy sự chấp nhận lưu trữ S3, tất nhiên NAS vẫn mạnh hơn bao giờ hết. Nhưng ngay cả khi HTTP trở thành một “giao thức lưu trữ” kể từ khi AWS ra mắt S3, làm thế nào một giải pháp lưu trữ đối tượng (Object Storage) có thể thay thế lưu trữ khối (Block Storage) khi các phương thức truy cập rất khác nhau và hiệu năng cũng khác nhau. VIệc lựa chọn Object Storage hay NAS/SAN phụ thuộc vào yêu cầu thực tế của ứng dụng.

Ban đầu, khi lưu trữ đối tượng được giới thiệu, nó là một cách để giải quyết các hạn chế của NAS và máy chủ tệp về dung lượng và khả năng mở rộng với kích thước tệp và số lượng tệp, dựa trên một thiết kế mới hoàn toàn với một số đặc điểm chính như không gian tên phẳng (single name space).

Lưu trữ đối tượng (Object Storage) trở nên rất phổ biến và, như đã nói, chúng ta nói nhiều hơn về lưu trữ S3 khi S3 đạt đến trạng thái tiêu chuẩn ngành. Một sự tiến hóa quan trọng được đại diện bởi khả năng truy cập cùng một nội dung từ một giao thức chia sẻ file nào như NFS hoặc SMB và API S3. Các trường hợp sử dụng có thể rất đa dạng, từ nhu cầu lưu trữ chính đến lưu trữ phụ khi mô hình trở nên phổ quát. Hệ sinh thái đối tác là chìa khóa khi tích hợp S3 đại diện cho một cơ hội thị trường quan trọng và phương tiện cho sự chấp nhận. Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên là sự chuyển hướng một số nhà cung cấp đã thực hiện với sự tập trung vào bảo vệ dữ liệu như một mục tiêu sao lưu hoặc thậm chí là lưu trữ. Rõ ràng, lưu trữ S3 là một ứng cử viên tốt đặc biệt khi độ bền được tối đa hóa với mã hóa xóa (erasure coding) và một vài cơ chế liền kề khác. 

Bước tiếp theo cũng là một bất ngờ đối với nhiều người trong chúng tôi khi đọc rằng lưu trữ đối tượng cần được bảo vệ bởi băng từ. Hình thức S3-to-Tape như là một dạng VTL 2.0, nó xem băng từ  như một bộ lưu trữ S3 với một đặc điểm chính: nó dựa trên HTTP nên có thể được truy cập từ xa.

Ở phía cực khác, ngoài các mô hình tập trung vào dung lượng và kết nối với băng từ, một số nhà cung cấp đã thiết kế các giải pháp object storage cho môi trường hiệu năng cao với  flash, NVMe, containerization, chuyển mạch mạng nhanh, lưu trữ key/value (giao dịch) mới… để phục vụ các khối lượng công việc đòi hỏi cao vẫn với giao diện S3. 

Phát triển bất ngờ cuối cùng là thiết kế nút đơn (single node)  tách rời khỏi mô hình ban đầu của lưu trữ đối tượng. Lúc này không còn cam kết về độ bền dữ liệu  với mã hóa xóa nữa. Rõ ràng là ứng dụng và dịch vụ ở biên (edge) cung cấp các cơ hội và người dùng yêu cầu S3 dù back-end là gì, nó có thể được cung cấp trên nhiều hương vị lưu trữ khác nhau.

Và chúng ta phải nói về mã nguồn mở, nó có vị trí trong phân khúc này với một số sản phẩm nổi tiếng. Như đã nói, hôm nay chúng ta nói về lưu trữ S3 xác nhận rằng lưu trữ đối tượng bây giờ là một giao diện chứ không còn là kiến trúc hay thiết kế nội bộ. Như một lời nhắc nhở, một đối tượng không tồn tại bên ngoài hệ thống định nghĩa và lưu trữ nó.

Tất cả những chuyển động và phát triển này minh họa hoàn hảo những gì chúng tôi đã định nghĩa trong nhiều năm với mô hình U3 (Universal, Unified and Ubiquitous). Lưu trữ Đối tượng hoặc đúng hơn là Lưu trữ S3 có 4 hướng đi chính:

  • Hướng đến dung lượng với các nhà cung cấp như Cloudian, DataCore, Dell, Hitachi Vantara, Huawei, IBM, NetApp hay Quantum, v.v.

  • S3-to-Tape với hơn 10 nhà cung cấp như Fujifilm, PoINT Software and Systems, QStar, Spectra Logic, Versity hay XenData, v.v.

  • Hiệu suất cao với DDN, Pure Storage, hay Vast Data, v.v.

  • Đơn nút với DataCore, Dell hay MinIO, v.v.

Hiện nay tại Việt Nam CSC Distribution đang là nhà phân phối và cung cấp giải pháp của các thương hiệu trên như: Cloudian, DataCore, PoINT hay Vast Data.